Khi nào một người góp vốn vào Công ty trở thành thành viên của Công ty

Một người sẽ có tư cách thành viên Công ty khi đã góp vốn vào thành lập Công ty. Cách thức góp vốn của thành viên phụ thuộc vào loại hình Công ty. Đối với Công ty TNHH hai thành viên trở lên khi một người góp vốn vào Công ty khi thành lập hoặc trong quá trình công ty hoạt động đều có thể trở thành thành viên Công ty. Vậy, khi nào một người góp vốn vào Công ty sẽ trở thành thành viên của Công ty?

1. Nội dung tranh chấp

Từ trước năm 2001, ông Trần V (em vợ của ông Nguyễn Văn Th) và ông Th (anh rể của ông V và ông Trần Mạnh H) chung nhau lập Tổ hợp tác A, sau đổi thành Công ty Xây lắp và Sản xuất Thiết bị điện A (sau đây viết tắt là Công ty A) theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102001784 ngày 09/01/2001 do Phòng Đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cấp. Thời điểm đó, thời hạn thuê đất của Công ty đã hết, nếu không có mặt bằng thì không thể tiếp tục sản xuất, kinh doanh. Ông V và ông Th đã đề nghị ông H, đang làm ăn ở Cộng hòa Séc (Tiệp Khắc) về nước, có vốn nhàn rỗi, tham gia vào thành viên của Công ty A để huy động thêm vốn đầu tư về mặt bằng, nhà xưởng sản xuất, kinh doanh. Ông H đã đồng ý cùng tham gia góp vốn với ông V, ông Th vào trong Công ty A.        

Đầu năm 2001 (dịp Tết nguyên đán), gia đình ông H có tổ chức một cuộc liên hoan, họp mặt tại nhà riêng của ông Th. Tại đây, ông H, ông V và ông Th đã cùng bàn bạc, thống nhất kết nạp thêm thành viên là ông H vào Công ty và thống nhất tỷ lệ vốn góp của mỗi người là 1/3 tại Công ty A để mở rộng quy mô của công ty và cùng nhau kinh doanh, đồng thời giao cho ông Th làm Giám đốc - Người đại diện theo pháp luật của Công ty. Ông H, ông V và ông Th đã xác định rõ, mỗi người có 1/3 phần vốn góp tại Công ty A, mỗi người được hưởng quyền lợi và chịu nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ vốn góp này.

Tuy nhiên, đăng ký kinh doanh thì vẫn giữ nguyên, chỉ ghi tên 2 người làm thành viên là ông V và ông Th, vì ông H thời điểm đó chưa có Chứng minh nhân dân, chưa nhập lại hộ khẩu về Việt Nam. Ngoài ra, do ông H thường xuyên ở nước ngoài, nếu đứng tên trên đăng ký kinh doanh thì khi cần ký giấy tờ cũng không tiện. Riêng ông H góp thêm 500.000.000 đồng với lý do là ông không ở Việt Nam nên không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Ông Th, ông V mỗi người góp 2.251.000.000 đồng, ông H góp 2.751.218.000 đồng.

Chính vì có việc góp tiền nêu trên nên hàng năm ông H được nhận số tiền trích lợi nhuận hoạt động của công ty do ông Th thanh toán, cụ thể: Qua 12 năm kinh doanh, từ năm 2003 đến năm 2015, ông H đã được chia lợi nhuận từ Công ty A với tổng số tiền khoảng 7.000.000.000 đồng bằng tiền mặt. Trong đó có một số năm, ông Th đã gửi tiền theo 3 cuốn sổ tiết kiệm mang tên ông Th, sau đó đối với phần chia cho ông H, ông Th gửi bà Th1 (vợ của ông V) giữ hộ một trong 3 cuốn sổ đó, vì ông H ở nước ngoài. Khi ông H cần rút tiền từ Sổ tiết kiệm, thì ông Th sẽ ủy quyền để bà Th1 đi rút tiền tại Ngân hàng (sự việc này đã được bà Th1 xác nhận). Ngày 22/3/2017, trong Biên bản họp Hội đồng thành viên góp vốn của Công ty A trong đó có ông H tham gia, các thành viên có tên trong Đăng ký kinh doanh (thay đổi lần thứ 5 ngày 09/5/2012), đã xác nhận số vốn đóng góp trong Công ty A như sau:

Ông Th góp 2.251.218.000 đồng - tương đương với 31% vốn Điều lệ của Công ty;

Ông V góp 2.251.218.000 đồng - tương đương với 31% vốn Điều lệ của Công ty;

 Ông H góp 2.751.218.000 đồng - tương đương với 38% vốn điều lệ của Công ty.

Tại Biên bản này cũng thể hiện, ông H góp nhiều hơn 2 thành viên còn lại số tiền 500.000.000 đồng, nhưng do không điều hành việc kinh doanh của Công ty, nên tất cả lợi nhuận thu được, thu nhập do thanh lý tài sản của Công ty sẽ chia đều cho 3 thành viên với tỷ lệ mỗi người được 33,33% (1/3), tỷ lệ sở hữu vốn của ông H cao hơn 2 thành viên còn lại, nhưng thỏa thuận lợi nhuận được chia đều cho cả 3 thành viên.

Tuy nhiên, từ đó đến nay, ông Th vẫn không tiến hành thay đổi Giấy đăng ký kinh doanh để đưa ông H vào làm thành viên của Công ty A, cũng không tiến hành họp Hội đồng thành viên theo quy định của Luật Doanh nghiệp để thông qua Báo cáo tài chính các năm 2015, 2016, 2017 và 2018 cũng như việc chia lợi nhuận cho các thành viên góp vốn.

Từ tháng 9/2008, sau khi ông H có hộ khẩu và Chứng minh nhân dân tại Việt Nam thì đã có nguyện vọng đưa tên vào Công ty nên đã trao đổi và đề nghị với ông Th rất nhiều lần nhưng ông Th không đồng ý.

Ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Xác định phần vốn góp của ông H trong Công ty A là 2.751.218.000 đồng theo biên bản ngày 22/3/2017 nhưng chỉ yêu cầu xác định tỷ lệ là 1/3 (phần 500.000.000 đồng góp nhiều hơn hai thành viên còn lại thì đồng ý tự nguyện chia đều cho 3 người để tỷ lệ của cả 2 người là ông Th và ông V mỗi người là 33,4%, ông H là 33,2%).

  2. Yêu cầu Công ty A tiến hành làm thủ tục tại cơ quan có thẩm quyền để bổ sung ông H là thành viên Công ty với số vốn ông H đã đóng góp. Nếu không thì ông H có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục ghi tên mình là thành viên của Công ty A.

Công ty A (do ông Th là người đại diện theo pháp luật) cho rằng: Từ trước năm 2001, ông V và ông Th có chung nhau lập Tổ hợp tác A, sau đổi thành Công ty A, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102001784 ngày 09/01/2001 do Phòng Đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cấp. Cuối năm 2001 đến năm 2003, ông H có chuyển tiền trực tiếp cho ông Th nhiều lần với tổng số tiền 2.751.000.000 đồng. Mục đích là gửi ông Th và ông V kinh doanh và chia lãi (lãi không ấn định con số cụ thể phụ thuộc vào lợi nhuận kinh doanh) hàng năm. Ông Th khẳng định số tiền này không phải góp vốn vào Công ty. Ông Th xác nhận từ năm 2003 đến năm 2015 thì ông H có được hưởng số tiền là 11.000.000.000 đồng chứ không phải là 7.000.000.000 đồng, cách thức trả hàng năm, có 3 cách là: Một là làm sổ tiết kiệm đứng tên ông Th, khi ông H cần lấy tiền thì ông Th sẽ làm uỷ quyền cho bà Th1 đi lấy tiền và chuyển cho ông H; cách thứ hai là chuyển khoản trực tiếp; cách thứ 3 là ông H nhận tiền trực tiếp và đều không có ký nhận gì cả. Đối với Văn bản ngày 22/3/2017, ông Th xác nhận có chữ viết chữ ký của ông Th, ông V, ông H trong Văn bản này nhưng nội dung không đúng như vậy. Lý do có văn bản này là vì số tiền 2.751.000.000 đồng, ông H đã gửi cho ông từ năm 2001 - 2003. Văn bản này do ông V soạn thảo và cùng với ông H mang đến bảo ông Th ký vào với mục đích là xác nhận khả năng kinh tế của ông H để ông H chuyển gia đình từ Tiệp Khắc sang Úc. Vì vậy, ông Th mới ký vào Văn bản ngày 22/3/2017.

Đối với đơn xin vào thành viên Công ty của ông H (ngày 16/3/2018), ông Th có nhận được đơn của ông H nhưng không phải do ông Th yêu cầu vì ông Th không đồng ý; đơn này, hiện ông Th đang giữ và đã nộp cho Tòa án bản sao. Do vậy, ông Th với tư cách là đại diện theo pháp luật của Công ty A không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.

2. Quan điểm giải quyết tranh chấp

Quan điểm thứ nhất cho rằng cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H đối với Công ty A. Xác nhận ông H là thành viên của Công ty A với tỷ lệ vốn góp là 1/3 với lý do như sau:

Từ đăng ký kinh doanh lần thứ nhất đến lần thứ 5 Công ty A chỉ có hai thành viên góp vốn với tỷ lệ ông Th góp 60%, ông V góp 40% vốn góp. Trong đó, ông Th là Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty. Tuy nhiên, thực tế tại Biên bản họp Hội đồng thành viên góp vốn của Công ty A ngày 22/3/2017 có sự tham gia của ông Th, ông V và ông H; theo đó, các bên cam kết xác nhận việc góp vốn của các thành viên vào Công ty A tổng số vốn góp là 7.253.656.000 đồng; ông Th góp 2.251.218.000 đồng, ông V góp 2.251.218.000 đồng và ông H góp 2.751.218.000 đồng.  Ngoài ra, ông H tự nguyện góp thêm 500.000.000 đồng do tham gia góp vốn nhưng không điều hành việc kinh doanh của Công ty, nhưng các bên nhất trí tất cả lợi nhuận thu được, thu nhập do thanh lý tài sản của Công ty sẽ chia đều cho 3 thành viên với tỷ lệ như nhau là mỗi người được 33,33 % (1/3). Biên bản này được lập thành 3 bản và 3 người cùng ký.

Ông Th xác nhận có chữ viết chữ ký của ông Th, ông V, ông H vào Biên bản ngày 22/3/2017 nêu trên và ông đã nhận số tiền 2.751.000.000 đồng do ông H gửi cho ông từ năm 2001 - 2003. Đồng thời, ông Th cũng thừa nhận từ năm 2003 đến năm 2015 ông H có được hưởng số tiền trích lợi nhuận hoạt động của Công ty do ông Th thanh toán số tiền là 11.000.000.000 đồng, cách thức trả hàng năm, có 3 cách là: Một là làm sổ tiết kiệm đứng tên ông Th, khi ông H cần lấy tiền thì ông Th sẽ làm uỷ quyền cho bà Th1 đi lấy tiền và chuyển cho ông H; cách thứ hai là chuyển khoản trực tiếp; cách thứ 3 là ông H nhận tiền trực tiếp.

Quan điểm thứ hai cho rằng chỉ có cơ sở xác định ông H góp vốn kinh doanh, chưa góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty A. Do đó,  không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H với lý do như sau:

Để chứng minh yêu cầu khởi kiện về việc xác định phần vốn góp vào Công ty A, qua đó xác định tư cách thành viên của Công ty thì ông H cần có các tài liệu, chứng cứ bao gồm: Thỏa thuận của các đương sự về việc cùng thành lập Công ty, ký tên trong danh sách thành viên sáng lập Công ty; có tên trong Điều lệ Công ty; có tên trong danh sách thành viên Công ty khi đăng ký kinh doanh; có tên trong giấy chứng nhận đăng ký phần vốn góp tương ứng với giá trị phần vốn đã góp; có tên trong sổ đăng ký thành viên; hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc quản lý, điều hành trong hội đồng thành viên của Công ty. Tuy nhiên, ông H không có các tài liệu, chứng cứ nêu trên để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ.

Các bên đương sự đều thừa nhận ông H có góp 2.751.000.000 đồng vào Công ty theo Biên bản họp Hội đồng thành viên góp vốn của Công ty A ngày 22/3/2017 với tổng số vốn góp là 7.253.656.000 đồng (của cả 3 người là ông V, ông H và ông Th). Cũng theo Biên bản này thì các bên nhất trí tất cả lợi nhuận thu được, thu nhập do thanh lý tài sản của công ty sẽ chia đều cho 3 thành viên với tỷ lệ như nhau là mỗi người được hưởng 33,33% (1/3), ông H tự nguyện góp thêm 500.000.000 đồng nhưng không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Theo quy định tại khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì “Góp vốn” là việc góp tài sản để tạo thành “vốn điều lệ” của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Thực tế, Công ty được thành lập năm 2001 có 2 thành viên góp vốn là ông Th và ông V với vốn điều lệ được đăng ký là 1.000.000.000 đồng; đăng ký thay đổi doanh nghiệp các lần sau đó (lần 2, 3, 4, 5) vào các năm 2006, 2010, 2012, 2015 theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì công ty có 2 thành viên là ông Th và ông V với vốn điều lệ công ty đã đăng ký là 6.000.000.000 đồng.

Theo Biên bản họp Hội đồng thành viên công ty ngày 22/3/2017 nêu trên thì các bên chỉ xác nhận việc góp vốn mà không có nội dung nào xác nhận đây là số vốn góp để thành lập Công ty hay nâng vốn điều lệ của Công ty theo quy định nêu trên. Các bên chỉ xác định việc chia lợi nhuận, thu nhập của mỗi người là 33,33% và ông H tự xác định không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Nếu xác định đây là việc góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty từ 6.000.000.000 đồng lên 7.253.656.000 đồng như các bên đã thỏa thuận thì việc tăng vốn này cũng chưa được công nhận vì chưa đăng ký và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Mặt khác, chính ông H ngày 16/3/2018 mới có đơn xin gia nhập Công ty A để hợp pháp hóa số tiền vốn đã góp vào Công ty trên là 33,3%. Ông Th không đồng ý làm thủ tục theo quy định để công nhận ông H là thành viên Công ty mà chỉ thừa nhận ông H góp vốn để kinh doanh cùng Công ty và được chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn kinh doanh đã góp. Theo quy định thì vốn điều lệ, việc góp vốn điều lệ để trở thành thành viên Công ty và việc góp vốn để kinh doanh là 2 vấn đề khác nhau.

3. Những vấn đề pháp lý cần bình luận

Quan điểm thứ hai đưa ra lập luận phân biệt việc góp vốn điều lệ để trở thành thành viên Công ty và việc góp vốn để kinh doanh là hai vấn đề khác nhau có sức thuyết phục như sau:

Thứ nhất: Các bên đương sự đều thừa nhận ông H có góp 2.751.000.000 đồng vào Công ty theo Biên bản họp Hội đồng thành viên góp vốn của Công ty A ngày 22/3/2017 với tổng số vốn góp là 7.253.656.000 đồng (của cả 3 người là ông V, ông H và ông Th). Cũng theo Biên bản này thì các bên nhất trí tất cả lợi nhuận thu được, thu nhập do thanh lý tài sản của Công ty sẽ chia đều cho 3 thành viên với tỷ lệ như nhau là mỗi người được hưởng 33,33% (1/3), ông H tự nguyện góp nhiều hơn 500.000.000 đồng nhưng không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Các bên đều ký vào biên bản này để làm bằng chứng về việc góp vốn và chia lợi nhuận mà không có nội dung nào thỏa thuận việc công nhận hay bổ sung thêm ông H làm thành viên Công ty.

Thứ hai: Thực tế, Công ty A được thành lập năm 2001 có 2 thành viên góp vốn là ông Th và ông V, với vốn điều lệ được đăng ký là 1.000.000.000 đồng; đăng ký thay đổi doanh nghiệp các lần sau đó (lần 2, 3, 4, 5) vào các năm 2006, 2010, 2012 theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì Công ty có 02 thành viên là ông Th và ông V với vốn điều lệ Công ty đã đăng ký là 6.000.000.000 đồng.

Thứ ba: Theo Biên bản họp Hội đồng thành viên Công ty ngày 22/3/2017 nêu trên thì các bên chỉ xác nhận việc góp vốn mà không có nội dung nào xác nhận đây là số vốn góp để thành lập Công ty hay nâng vốn điều lệ của Công ty theo quy định. Các bên chỉ xác định việc chia lợi nhuận, thu nhập của mỗi người là 33,33% mà không có nội dung nào thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của mình đối với: các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty theo Điều lệ Công ty. Mặt khác, tại biên bản này, ông H tự xác định không điều hành việc kinh doanh của Công ty. Nếu xác định đây là việc góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty từ 6.000.000.000 đồng lên 7.253.656.000 đồng như các bên đã thỏa thuận thì việc tăng vốn này cũng chưa được công nhận vì chưa đăng ký và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Thứ tư: Ông H ngày 16/3/2018 mới có đơn xin gia nhập Công ty A để hợp pháp hóa số tiền vốn đã góp vào Công ty trên là 33,3%. Tuy nhiên, ông Th không đồng ý làm thủ tục theo quy định để công nhận ông H là thành viên Công ty mà chỉ thừa nhận ông H góp vốn để kinh doanh cùng Công ty và được chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn kinh doanh đã góp.

Như vậy, theo quy định thì vốn điều lệ, việc góp vốn điều lệ để trở thành thành viên Công ty và việc góp vốn để kinh doanh là hai vấn đề khác nhau. Các bên không có thỏa thuận, không đăng ký tăng vốn điều lệ lên 7.253.656.000 đồng, trong đó, ông H đã góp là 2.751.000.000 đồng không có nghĩa ông H góp 33,3% vốn điều lệ. Vì vậy, chỉ có cơ sở xác định ông H góp vốn kinh doanh, không phải góp vốn để tăng vốn điều lệ của Công ty A.

 

Doanh nghiệp chế biến nông sản- Ảnh: MH

Luật gia LÝ LINH