Một số vướng mắc trong việc giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn

Hiện nay TANDTC đang đẩy mạnh tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình... và xác định tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, cần được tháo gỡ.

1. Rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự

Khoản 2 Điều 396 BLTTDS 2015 quy định: “Vợ, chồng cùng yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn yêu cầu. Trong trường hợp này vợ, chồng cùng được xác định là người yêu cầu”.

Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn phải có ký tên hoặc điểm chỉ của cả vợ và chồng. Vậy trong quá trình giải quyết, một bên vợ hoặc chồng có đơn rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự (trong đơn chỉ có chữ ký hoặc điểm chỉ của một bên vợ hoặc chồng) thì Tòa án có ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự không?

Quan điểm 1: Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự.

Quan điểm 2: Tòa án không được ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự mà Tòa án phải đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết.

Quan điểm 3: Tòa án phải lấy ý kiến bên đương sự còn lại có đồng ý về việc rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự hay không. Trường hợp đồng ý thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự, trường hợp không đồng ý thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết.

Tác giả đồng tình với quan điểm 3 vì những lý do sau:

- Theo khoản 5 Điều 397 BLTTDS 2015 thì: Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Như vậy quan điểm 2 sẽ không phù hợp với quy định trên vì thời điểm này Tòa án chưa tiến hành hòa giải.

- Tại điểm a khoản 4 Điều 363 BLTTDS 2015 quy định:

“4. Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thực hiện như sau:

a) Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí”.

Cả vợ và chồng đều được xác định là người yêu cầu, Tòa án thông báo cho cả vợ và chồng về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự với số tiền là 300.000 đồng. Trường hợp này ta có thể hiểu trong số tiền 300.000 đồng, vợ và chồng mỗi bên chịu trách nhiệm nộp 150.000 đồng. Như vậy, việc Tòa án dựa vào đơn rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự, mà trong đơn chỉ có chữ ký hoặc điểm chỉ của một bên vợ hoặc chồng để ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại.

2. Hậu quả pháp lý trong trường hợp rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự

Điều 361 BLTTDS 2015 quy định về phạm vi áp dụng là trường hợp Phần thứ sáu về thủ tục giải quyết việc dân sự, trường hợp không quy định thì áp dụng những quy định khác của Bộ luật này để giải quyết việc dân sự. Theo quy định tại Phần thứ sáu về thủ tục giải quyết việc dân sự không có quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp rút đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự nên phải áp dụng những quy định tại Điều 218 BLTTDS 2015 (hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự) để giải quyết việc dân sự.

Khoản 3 Điều 218 BLTTDS 2015 quy định: “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện quy định tại điểm c và trường hợp khác quy định tại các điểm d, đ, e và g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ”.

Tuy nhiên, khoản 5 Điều 18 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định: “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 366, Điều 382, khoản 3 Điều 388, khoản 3 Điều 392 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tiền tạm ứng lệ phí Tòa án đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước”.

Như vậy, giữa BLTTDS và Nghị quyết số 326 có sự mâu thuẫn với nhau và BLTTDS có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị quyết số 326. Hiện nay vẫn tồn tại hai  quan điểm về việc có sung vào công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng lệ phí đã nộp hay không.

Quan điểm của tác giả là không sung vào công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng lệ phí đã nộp vì ý nghĩa của án phí, lệ phí là giúp người dân tự ý thức hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, hạn chế những sự kiện không đáng đưa đến Tòa án mà vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết việc dân sự (đoàn tụ) thì phải trả lại cho người yêu cầu số tiền tạm ứng lệ phí đã nộp.

Vì vậy, trường hợp này cần quy định rõ hậu quả pháp lý của việc đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự trong Phần thứ sáu về thủ tục giải quyết việc dân sự hoặc bãi bỏ quy định này trong Nghị quyết số 326 để bảo bảm sự thống nhất của pháp luật.

3. Tòa án mở phiên họp giải quyết việc dân sự hay phiên hòa giải

Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc mở phiên hòa giải hay mở phiên họp để giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, đa số đều mở phiên hòa giải, tuy nhiên vẫn còn một số Tòa án vẫn mở phiên họp và có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát.

Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là việc hôn nhân và gia đình nằm trong trong Phần thứ sáu về thủ tục giải quyết việc dân sự của BLTTDS. Tuy nhiên, thủ tục giải quyết của việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn được quy định riêng.

Khoản 2 Điều 397 BLTTDS 2015 quy định: “Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ; giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình”.

Như vậy, khi giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, Tòa án bắt buộc phải mở phiên hòa giải và phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

4. Có lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành không

Khoản 4 Điều 397 BLTTDS quy định: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

a) Hai bên thực sự tự nguyện ly hôn;

b) Hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản chung, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con;

c) Sự thỏa thuận phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, con”.

Thực tiễn giải quyết hiện nay có hai quan điểm:

Quan điểm 1: Không lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành. Sau 07 (bảy) ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, nếu có đầy đủ các điều kiện nêu trên thì Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.

Quan điểm 2: Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, thì Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành. Sau 07 (bảy) ngày kể từ ngày lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành, nếu có đầy đủ các điều kiện nêu trên thì Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.

Tác giả đồng tình với quan điểm 2, bởi lẽ:

- Biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành (Biên bản hòa giải thành) là văn bản ghi lại diễn biến của quá trình hòa giải đạt kết quả hòa giải thành. Biên bản do Toà án lập khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ việc và là một trong những căn cứ để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

- Tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 quy định:

“1. Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp”.

Như vậy, phải hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành (trường hợp này là biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành) mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

5. Trường hợp hòa giải đoàn tụ thành thì Tòa án có lập biên bản hòa giải thành không

Về vấn đề này, BLTTDS chưa có quy định cụ thể.

Khoản 3 Điều 397 BLTTDS 2015 quy định: 3. Trường hợp sau khi hòa giải, vợ, chồng đoàn tụ thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ”.

Theo tác giả, trường hợp sau khi hòa giải, vợ chồng đoàn tụ thì Tòa án không lập biên bản hòa giải thành. Trong biên bản hòa giải, tại mục “NHỮNG NỘI DUNG ĐÃ ĐƯỢC CÁC ĐƯƠNG SỰ THỐNG NHẤT, KHÔNG THỐNG NHẤT” chỉ cần thể hiện nội dung các đương sự thống nhất vợ chồng đoàn tụ. 

6. Giải quyết tiền tạm ứng án phí, lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong trường hợp hòa giải đoàn tụ thành

Về vấn đề này, BLTTDS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 đều chưa có quy định cụ thể.

Án phí, lệ phí không chỉ có ý nghĩa bảo vệ cho lợi ích của Nhà nước mà cả lợi ích của người dân, xã hội nói chung, vừa đóng vai trò hỗ trợ cho Nhà nước trong việc trang trải các chí phí tố tụng, vừa giúp người dân tự ý thức hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, hạn chế những sự kiện không cần thiết đưa đến Tòa án mà vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trường hợp này, Tòa án đã mở phiên hòa giải, tiến hành hòa giải để các đương sự đoàn tụ với nhau nên quan điểm của tác giả là phải sung vào công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng lệ phí đã nộp.

7. Về biểu mẫu đình chỉ giải quyết việc dân sự

Hiện nay hệ thống biểu mẫu giải quyết việc dân sự được quy định tại Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09/8/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong giải quyết việc dân sự.

Biểu mẫu liên quan đến quyết định đình chỉ gồm: Mẫu số 19-VDS (Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự) và Mẫu số 20-VDS (Quyết định đình chỉ giải quyết sơ thẩm việc dân sự). Có thể hiểu là Mẫu số 19 dùng trong trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu (ví dụ: Trong thời hạn thông báo, nếu người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ việc xét đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích theo khoản 3 Điều 388 của BLTTDS 2015), còn Mẫu số 20 dùng trong trường hợp đã có quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự (ví dụ: Trường hợp người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự theo khoản 2 Điều 367 BLTTDS 2015).

Khoản 3 Điều 397 BLTTDS 2015 quy định: “3. Trường hợp sau khi hòa giải, vợ, chồng đoàn tụ thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ”.

Như vậy, trường hợp vợ chồng đoàn tụ thì Thẩm phán sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu theo Mẫu số 19 hay Mẫu số 20. Quan điểm của tác giả là sẽ ban hành quyết định đình chỉ theo Mẫu số 19, vì Tòa án không mở phiên họp giải quyết việc dân sự.

 

NGUYỄN THÁI NAM (TAND huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) - THÁI THỊ MỸ NGA (TAND tỉnh Gia Lai)

Hòa giải tại TAND tỉnh Thái Nguyên - Ảnh: BTN