Tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong trường hợp thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung

Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự dân sự là khoảng thời gian để Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng như: thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp, tống đạt, văn bản tố tụng và tiến hành hòa giải theo quy định. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự còn có một số vướng mắc, bất cập.

Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm có vai trò rất quan trọng, tuy không đưa ra những phán quyết như giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm nhưng giai đoạn này sẽ đảm bảo cho việc xét xử và các phán quyết của Tòa được đưa ra một cách khách quan và đúng pháp luật. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ, xem xét chứng cứ tài liệu, trường hợp cần thiết yêu cầu đương sự cung cấp thêm chứng cứ tài liệu hoặc tự mình thu thập, việc này giúp Tòa án cấp sơ thẩm có đủ chứng cứ, tài liệu và nhận thức đúng về tình tiết của vụ án từ đó giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sẽ giúp Tòa án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Không chỉ vậy, chuẩn bị xét xử còn góp phần xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án, giúp Hội đồng xét xử có quan điểm đúng đắn để giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm và đảm bảo đúng pháp luật; hạn chế thấp nhất những sai lầm, thiếu sót trong xét xử và tình trạng án sơ thẩm bị hủy, sửa do vi phạm.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử

Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định cụ thể tại Điều 203 BLTTDS năm 2015 như sau:

- Thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án: Đối với các vụ án tranh chấp về dân sự được quy định tại Điều 26 và các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 28 của BLTTDS năm 2015.

- Thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án: Đối với các vụ án tranh chấp về kinh doanh, thương mại được quy định tại Điều 30 và các vụ án tranh chấp về lao động được quy định tại Điều 32 của BLTTDS năm 2015.

- Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan:

+ Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án được quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật.

+ Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 01 tháng đối với vụ án được quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật.

Về tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử

Hiện nay, BLTTDS năm 2015 (Khoản 1 Điều 203) chỉ quy định tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án dân sự đã tạm đình chỉ mà Tòa án tiếp tục giải quyết; theo đó, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Thực tiễn giải quyết các vụ án cho thấy, có nhiều trường hợp mặc dù pháp luật chưa quy định về tính lại thời hạn nhưng một số Tòa án vẫn tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử như trường hợp khi bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, khi nhập, tách vụ án, khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập và yêu cầu khởi kiện bổ sung. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin được trao đổi về thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp khi thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung thông qua vụ án cụ thể dưới đây.

Ngày 21/02/2022, ông Nguyễn Văn H khởi kiện ông Nguyễn Thành Th tại Tòa án huyện D để yêu cầu ông Th phải trả lại số tiền vay là 19.500.000đ. Ngày 02/3/2022, Tòa án huyện D đã thụ lý vụ án dân sự sơ thẩm về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn H và bị đơn ông Nguyễn Thành Th theo Thông báo về việc thụ lý vụ án số 11/2022/TB-TLVA ngày 02/3/2022. Trong thời hạn chuẩn bị xử, Tòa án đã tiến hành các hoạt động tố tụng như lấy lời khai, thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án. Ngày 18/5/2022, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H có đơn khởi kiện bổ sung về việc yêu cầu bị đơn ông Th phải trả thêm khoản nợ 14.500.000đ và Tòa án huyện D đã thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Nguyễn Văn H theo Thông báo số 315/2022/TB-TA ngày 06/6/2022. Sau khi hòa giải 02 lần không có kết quả, ngày 29/7/2022, Tòa án huyện D đã đưa vụ án trên ra xét xử theo quy định.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án nêu trên, hiện nay có 02 luồng quan điểm khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tính đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử 29/7/2022, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án nêu trên đã hết bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 203 của BLTTDS năm 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án trên là 04 tháng kể từ ngày 02/3/2022. Theo đó, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án đã hết vào ngày 02/7/2022. Do đó, đến ngày 29/7/2022, Tòa án mới đưa vụ án ra xét xử là vi phạm thời hạn tố tụng. Những người theo quan điểm này cho rằng pháp luật tố tụng dân sự không quy định tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp khi thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung nên Tòa án không có căn cứ để tính lại thời hạn.

Quan điểm thứ hai cho rằng, tính đến ngày 29/7/2022, vụ án vẫn còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Những người có quan điểm này cho rằng thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án trên được tính lại kể từ ngày Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn là ngày 06/6/2022, theo đó, đến ngày 06/10/2022, vụ án mới hết thời hạn chuẩn bị xét xử.

Cần có văn bản hướng dẫn

Tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai, vì lý do sau: Trong vụ án nêu trên, việc nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện bổ sung trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án thụ lý là đúng quy định. Sau khi thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn, Tòa án phải tiến hành thêm các bước thu thập lời khai, tài liệu, chứng cứ thì mới có thể giải quyết vụ án chính xác và đúng quy định của pháp luật. Điều này làm cho vụ án quá thời hạn chuẩn bị xét xử mà không phải do lỗi chủ quan của Thẩm phán.

Mặt khác, việc Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung cũng giống như việc Tòa án thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ở chỗ là đều làm cho vụ án có nhiều quan hệ tranh chấp hơn so với thời điểm thụ lý ban đầu và có thể phải bổ sung thêm người tham gia tố tụng vào việc giải quyết vụ án, do đó, để giải quyết được vụ án, Tòa án cần có nhiều thời gian hơn so với trường hợp không thụ lý yêu cầu bổ sung của đương sự.

Trước đây, tại khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS (Nghị quyết số 05/2012) có quy định trong trường hợp Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được xác định từ ngày hoàn thành thủ tục phản tố, yêu cầu độc lập. Hiện nay, Nghị quyết 05/2012 đã hết hiệu lực nhưng chưa bị bác bỏ, thay thế bởi một văn bản khác nên một số Tòa án vẫn linh hoạt vận dụng Điều 203 BLTTDS năm 2015 và khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 05/2012 để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trong khi giải quyết vụ án.

Như vậy, mặc dù hiện nay BLTTDS năm 2015 và văn bản hướng dẫn chưa có quy định về việc tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập nhưng ít ra các nhà làm luật đã từng chấp nhận việc tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, còn trường hợp khi thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung thì chưa từng được ghi nhận ở một văn bản quy phạm pháp luật nào. Thiết nghĩ, về bản chất thì việc thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập với yêu cầu khởi kiện bổ sung đều giống nhau ở chỗ là khi thụ lý các yêu cầu này thì vụ án sẽ có thêm quan hệ pháp luật tranh chấp so với thời điểm thụ lý ban đầu, thế nhưng khi thụ lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì được tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử, còn khi thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung thì không được tính lại thời hạn là không “công bằng”, không hợp lý cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.

Do đó, tác giả rất mong các nhà làm luật sớm có văn bản hướng dẫn nội dung trên để việc áp dụng pháp luật trên thực tế được thống nhất và đúng quy định. Qua đây, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất bổ sung quy định tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 đối với trường hợp khi thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung. 

 

Tòa án huyện Thới Lai, Cần Thơ xét xử vụ án dân sự- Ảnh: Phạm Hoài Hận 

ĐOÀN THỊ MAI (TAND huyện Diên Khánh, Khánh Hòa)