Các vi phạm và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội

Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc mới trong BLTTHS. Hiện nay tuy chưa có vụ án thể hiện vi phạm nguyên tắc “suy đoán vô tội” một cách rõ ràng, nhưng qua thực giải quyết án hình sự trong thời gian trước đây, vẫn có một số vụ án có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc này. Các vi phạm này được biểu hiện ở một số vấn đề sau và giải pháp bảo đảm thực hiện.

1. Các biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn

Một là, Bắt, tạm giữ và truy cứu trách nhiệm hình sự không có căn cứ. Bắt, tạm giữ là một trong những hoạt động ban đầu của quá trình giải quyết vụ án, việc vi phạm các quy định về bắt, tạm giữ người bị buộc trong giai đoạn này có ảnh hưởng gián tiếp đến nguyên tắc suy đoán vô tội và hạn chế một số quyền cá nhân của họ. Mặc dù chưa có tội nhưng việc bị phân biệt đối xử, và việc chịu một số áp lực từ phía cơ quan điều tra ít nhiều có thể làm ảnh hưởng đến tâm lý người bị buộc tội, dẫn đến một tình trạng chung là “bị ép nhận lỗi”. Trong giai đoàn này trách nhiệm thuộc về cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, các vụ án oan sai thường xuất phát ngay tại giai đoạn ban đầu, các cơ quan tố tụng chưa thu thập được hoặc đã thu thập được các căn cứ nhưng không rõ ràng, còn mập mờ. Như vậy ngay từ ban đầu hồ sơ vụ án đã có sự sai lệch và phải mất rất nhiều thời gian để có thể phát hiện, giải quyết lại từ đầu. Và nếu phát hiện được thì quyền tự do thân thể của người bị buộc tội đã bị vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống của họ và người thân.

Hai là, Mớm cung, bức cung, nhục hình

Tình trạng điều tra viên mớm cung, bức cung trong quá trình lấy lời khai người bị tạm giữ hoặc hỏi cung bị can có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả điều tra. Từ đó, các điều tra viên trên tinh thần tư duy buộc tội đã vô hình áp dụng “suy đoán có tội”, và dẫn đến nhiều tình trạng oan sai như hiện nay. Các hành vi bức cung, dùng nhục hình thường diễn ra ngay sau khi bắt, tạm giữ hoặc khi lấy lời khai mà đối tượng không nhận tội. Tuy nhiên việc phát hiện và xử lý các trưởng hợp mớm cung, bức cung, nhục hình là hết sức khó khăn vì đây là một dạng hoạt động tố tụng đặc thù.

Ba là, Bản án kết tội oan, sai.

Án oan, sai là biểu hiện rõ nét nhất vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Việc vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn này thường chủ yếu do nguyên nhân xét xử theo kiểu “án tại hồ sơ”, không chú ý đến các chứng cứ, lời khai tại phiên tòa, ý kiến của luật sư bào chữa; việc xét xử lại căn cứ vào các giả định, phán đoán về tình tiết của vụ án hoặc các chứng cứ không xác thực.

Bốn là, Cơ quan thông tin đại chúng đưa tin sai sự thật.

Nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc hiến định không ai được vi phạm, kể cả cơ quan thông tin đại chúng. Cơ quan thông tin đại chúng có thể giúp cho nguyên tắc xét xử công khai và tác dụng tuyên truyền pháp luật của Tòa án vượt xa không gian chật hẹp của phòng xử án. Cơ quan thông tin đại chúng không chỉ làm dư luận xã hội chú ý về những vấn đề nội dung của vụ án mà còn chú ý cả những khía cạnh khác của hoạt động tố tụng như những khiếm khuyết, sai phạm, văn hóa ứng xử, sự thiếu khách quan của những người tiến hành tố tụng. Khi thông tin của cơ quan thông tin đại chúng là xác thực thì những trường hợp trên có tác dụng tích cực trong việc tuân thủ pháp chế, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng thực tế cho thấy, có những trường hợp vụ án mới trong giai đoạn điều tra, truy tố và đang xét xử thì cơ quan thông tin đại chúng đã đăng những bài viết mà trong đó người bị buộc tội được mô tả như những đối tượng nguy hiểm, phải đền tội bằng những hình phạt nghiêm khắc nhất. Điều muốn nói ở đây là, khi vụ án đang ở trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc đang xét xử, chưa có bản án thì các cơ quan thông tin đại chúng đã tự kết tội những người đó.

Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải dựa vào các chứng cứ được xem xét công khai tại phiên tòa, không bị ràng buộc bởi bất kỳ ý kiến đánh giá về chứng cứ, về tình tiết, sự kiện trong vụ án của bất kỳ ai. Nhưng Hội đồng xét xử bao gồm những con người và họ có thể phải chịu tác động tâm lý từ cơ quan thông tin đại chúng khi nghị án. Không loại trừ khả năng trong số những người đọc báo, xem truyền hình, nghe đài có thể có những người tham gia phiên tòa với tư cách người bị hại, người làm chứng, người giám định hay người phiên dịch. Liệu có gì bảo đảm rằng những lời khai của họ hoàn toàn không bị ảnh hưởng chi phối của những thông tin về vụ án mà họ biết được qua các phương tiện thông tin đại chúng? Và như vậy, quá trình làm sáng tỏ sự thật của vụ án sẽ trở nên khó khăn hơn. Nhưng vấn đề cần đặt ra ở đây là, nếu bản án của hội đồng xét xử có những nội dung giống như cơ quan thông tin đại chúng đã khẳng định, thì trong nhận thức của công chúng, cơ quan thông tin đại chúng là người xử án, còn Hội đồng xét xử là người chạy theo cơ quan thông tin đại chúng hoặc Hội đồng xét xử đã chịu sự tác động của cơ quan thông tin đại chúng khi thực hiện chức năng xét xử. Dưới góc độ suy đoán vô tội, trong thời gian qua các cơ quan thông tin đại chúng, đặc biệt là báo chí đã có những vi phạm ảnh hưởng đến quyền con người và hơn hết là quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội

2. Nguyên nhân dẫn đến vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội

Một là, Thu thập chứng cứ thiếu sót, vi phạm luật trong thu thập chứng cứ. Việc áp dụng các quy định về vật chứng còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót nhất định. Cụ thể chưa phân định rõ ràng giữa vật chứng trong tố tụng dân sự và tố tụng hình sự, các tài liệu đồ vật khác bị thu giữ trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc thu thập chứng cứ không kịp thời, đầy đủ dẫn đến vật chứng bị thiếu xót, mất, hư hỏng không thể phục hồi lại được làm ảnh hưởng đến kết quả điều tả, truy tố xét xử. Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ bị thiếu sót ngay từ ban đầu dẫn đến các cơ quan tố tụng giai đoạn sau áp dụng sai quy định pháp luật.

Trong công tác điều tra thu thập chứng cứ đối với loại án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm và giết người không quả tang thường có nhiều thiếu sót, còn yếu kém. Thậm chí có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Dẫn chứng một số vụ qua giám sát thấy quá trình khám nghiệm không thu thập, làm rõ đến cùng những dấu vết, chứng cứ quan trọng từ hiện trường, tử thi, dấu vết con người của thủ phạm như dấu chân, vân tay, sợi tóc... Có những hồ sơ vụ án cho thấy có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như biên bản ghi lời khai bị tẩy xóa, sửa chữa, thiếu khách quan, ngụy tạo chứng cứ, không kịp thời giải quyết khiếu nại kêu oan, đơn tố cáo bị bức cung, nhục hình…

Hoạt động điều tra còn có thiếu sót, vi phạm tố tụng như biên bản ghi lời khai sơ sài, không ghi tư cách người tham gia tố tụng, cùng một thời gian điều tra viên lấy lời khai của nhiều người ở các địa điểm khác nhau; không làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của các bị can và giữa lời khai của bị can với người làm chứng, người bị hại; biên bản hỏi cung bị tẩy, sửa, thiếu chữ ký của bị can… Những vi phạm, thiếu sót này là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện về điều tra, thu thập chứng cứ và số vụ phải trả hồ sơ điều tra bổ sung còn nhiều, làm kéo dài việc giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ảnh hưởng đến tính đúng đắn, nghiêm minh của hoạt động tư pháp.

Hai là, Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng sai quy định pháp luật. Những trường hợp bị oan, sai chủ yếu do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng sai quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự. Cụ thế ở đây là cơ quan Viện kiểm sát và Tòa án. Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía các chủ thể tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán. Năng lực nghiệp vụ cũng như nhận thức chưa hiểu rõ hết bản chất của sự việc từ đó dẫn đến việc áp dụng điều luật chưa thật sự chuẩn xác, chưa tương ứng với hành vi phạm tội xảy ra. Bên cạnh đó, về mặt khách quan, do tính chất tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, với quy mô, tính chất và thủ đoạn ngày càng tinh vi, mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, hậu quả xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Các quy định chưa điều chỉnh các căn cứ xác định cụ thể. Dẫn đến có sự tương đồng trong cách đối chiếu hành vi phạm tội vào quy định pháp luật. Ví dụ: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tại sản, đây là hai tội mà trong thực tế đã có nhiều trường hợp áp dụng nhầm lẫn. Tuy nhiên, có những trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chưa đúng, không đầy đủ về trình tự, thủ tục tố tụng nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án, không làm oan người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, truy tố, xét xử.

Ba là, Công tác kiểm sát, phối hợp chưa chặt chẽ. Công tác kiểm sát quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án chưa theo sát diễn biến vụ việc, thiếu kiểm tra các “tình tiết phạm tội” trong vụ án hình sự, các chi tiết trong án dẫn đến hiện tượng chỉ dựa vào kết luận điều tra để truy tố. Trong xét xử vẫn chủ yếu dựa vào hồ sơ nên hình thành “án tại hồ sơ” mà ngại “lật giở” lại các tình tiết, nội dung của vụ án. Công tác phối hợp trong điều tra, truy tố, xét xử có lúc, có nơi chưa thật sự chặt chẽ, tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn nhiều làm kéo dài thời hạn giải quyết, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tốn kém cho Nhà nước.

Bốn là, Trình độ pháp luật và năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng hạn chế. Trình độ pháp luật cũng như năng lực nghiệp vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng đóng một vai trò quan trọng trong việc thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội. Tuy nhiên đây cũng là một vấn đề khó khăn, bởi đội ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán vừa thiếu về số lượng, một bộ phận còn yếu về chất lượng. Năng lực không đồng đều, không có trách nhiệm trong công việc, phẩm chất đạo đức không đạt. Thực tế đã chỉ ra không ít có trường hợp các chủ thể tiến hành tố tụng đã ra các quyết định không có căn cứ. Nhiều trường hợp, thay vì áp dụng nguyên tắc “suy đoán vô tội” thì các chủ thể tiến hành tố tụng lại áp dụng theo hướng “suy đoán có tội”, đồng nhất và duy ý chí đối với những người này như một người phạm tội. Không loại trừ những khả năng họ bị định kiến đối xử như bị can, bị cáo.

Năm là, Về mặt khách quan các quy định pháp luật tố tụng chưa thật sự được hiện thực hóa. Pháp luật tố tụng còn thiếu quy định cụ thể về căn cứ, cách thức trưng cầu để bảo đảm sự độc lập, khách quan và hiệu quả của hoạt động tố tụng và hoạt động giám định; cơ chế xem xét, đánh giá và sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng với tư cách là một loại chứng cứ đặc biệt trong hoạt động tố tụng, những trường hợp bắt buộc người giám định tư pháp phải có mặt tham dự phiên tòa để trình bày và bảo vệ kết quả giám định chưa được quy định cụ thể thành điều luật. Các quy định về bắt và tạm giữ vẫn còn nghiêng về “cưỡng chế” vì người bị tạm giữ phải được biết lý do mình bị tạm giữ, được giải thích về quyền và nghĩa vụ, trình bày lời khai, khiếu nại việc tạm giữ. Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai, được hỏi và thu thập chứng cứ từ người tạm giữ, bị can (quyền bào chữa có từ khi người bị tình nghi phạm tội). Tuy nhiên, trong thực tế các quy định này không có hiệu quả một phần là do rào cản từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, một phần do vai trò luật sư chưa được thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Sáu là, Việc bổ nhiệm Thẩm phán dựa vào rất nhiều tiêu chuẩn, nhưng các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp có trường hợp chưa được thật sự quan tâm đúng mức. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ 05 năm đã tạo cho Thẩm phán bị đè nặng về tâm lý lo không được tái nhiệm; chế độ đãi ngộ (lương, phụ cấp nghề nghiệp,...) không bảo đảm cho cuộc sống gia đình là những yếu tố tác động không nhỏ đến tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán.

3. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn

BLTTHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung rất cơ bản, đồng bộ, có căn cứ khoa học và về cơ bản đã khắc phục được những bất cập, vướng mắc trong các quy định của BLTTHS năm 2003, đáp ứng kịp thời các yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, theo chúng tôi BLTTHS năm 2015 cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện một số quy định liên quan đến vấn đề này. Cụ thể như sau:

- Tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự phù hợp

Hiện nay nước ta đang vận dụng mô hình tố tung thẩm vấn, kết hợp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa. Đây là một mô hình tố tụng phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay, đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp trong công tác xét xử, phòng chống oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, tình hình kinh tế - xã hội có những bước phát triển mới, đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật, những thay đổi này đòi hỏi phải có những cải cách trong tố tụng hình sự. Theo đó cần định hướng hoàn thiện mô hình tố tụng theo hướng pha trộn giữa thẩm vấn và tranh tụng, nhưng thiên về tranh tụng hơn. Xác định rõ bên buộc tội và bên bào chữa, Tòa án chỉ với vai trò trung gian và điều hành phiên tòa. Đây là định hướng là phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và bảo vệ quyền con người.

- Hoàn thiện hệ thống nguyên tắc tiến hành tố tụng

Một là, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng giúp người bị buộc tội tự bảo vệ mình, tuy nhiên các quy định cụ thể liên quan đến vấn đề này vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, các quy định về quyền bào chữa hiện nay thường được quy định một cách rãi rác, xuyên suốt BLTTHS. Điều này dẫn đến việc áp dụng các quy định pháp luật không được thống nhất, không bao quát hết để có thể vận dụng chính xác. Vì vậy, Cần quy định một chương riêng về quyền bào chữa, tập hợp những điều luật một cách thống nhất, logic khi áp dụng. Việc quy định một chương riêng về quyền bào chữa cũng nói lên tầm quan trọng của quyền bào chữa trong hệ thống tiến hành tố tụng.

Hai là, Ghi nhận và hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng

 Yếu tố tranh tụng tập trung cao nhất ở giai đoạn xét xử thể hiện qua hoạt động tranh luận. Tuy nhiên, tranh tụng không chỉ xuất hiện ở giai đoạn xét xử mà nó xuất hiện đồng thời với buộc tội, gỡ tội. Bởi có buộc tội thì có nhu cầu gỡ tội để thu thập chứng cứ, chứng minh lý lẽ, phản biện. Vậy nên việc ghi nhận như tại Điều 26 BLTTHS 2015 “Đảm bảo tranh tụng trong xét xử” là vẫn chưa khái quát hết được vai trò của nguyên tắc tranh tụng. Do đó, nên quy định “ Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự” là một nguyên tắc cơ bản của tiến hành tố tụng. Bởi nguyên tắc này nên tồn tại từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử sẽ góp phần đảm bảo chân lý khách quan của vụ án, làm cơ sở để loại trừ các sai phạm tư pháp như: bức cung, nhục hình… làm sai lệch hồ sơ vụ án. Quan trọng hơn là bảo đảm được tính dân chủ trong quá trình giải quyết vụ án giữa các chủ thể. Ngoài ra, cần quy định: Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nên chỉ giữ vai trò là trọng tài điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa đại diện Viện kiểm sát với luật sư và bị cáo, các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh và tiến hành đối đáp là chủ yếu. Tòa án đóng vai trò là người điều hành nhưng có quyền tham gia xét hỏi bất cứ khi nào và với tất cả các chủ thể nào nhằm mục đích xác định sự thật khách quan.

Ba là, hoàn thiện nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự

 Nguyên tắc này quy định trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà ở đây là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Nội dung trên có lẽ phần nào trái với tinh thần cải cách tư pháp, bởi cần xác định rõ quyền hạn và nhiệm vụ nhất định của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là hai cơ quan phải có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự, tuy nhiên việc quy định Tòa án là cơ quan có trách nhiệm khởi tố vụ án là không hợp lý. Do đó cần cân nhắc định hướng có nên giao trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự cho Tòa án hay không. Nếu phải thực thi trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự liệu có ảnh hưởng đến chức năng xét xử của Tòa án và có lấn sang chức năng công tố không. Theo quan điểm tác giả nên tách biệt Tòa án là một cơ quan chỉ có chức năng xét xử mà không có trách nhiệm khởi tố vụ án.

Bốn là, hoàn thiện nguyên tắc xác định sự thật vụ án

 Pháp luật tố tụng hình sự quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là ba cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tuy nhiên theo tác giả, với định hướng phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng như Nghị quyết số 49 Bộ Chính trị đã nêu thì nên bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án, trách nhiệm này thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Việc Tòa án tham gia hoạt động chứng minh tội phạm thì cũng đồng nghĩa với việc mô hình tố tụng nước ta sẽ chuyển sang mô mình thẩm vấn. Theo đó, nguyên tắc này cần quy định lại theo hướng như sau “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát, Tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm…”

Năm là, quy định “Quyền im lặng” trong tiến hành tố tụng

 Quyền im lặng là một quyền cơ bản của con người, mới được Nhà nước ta đề cập trong Hiến pháp 2013 mà chưa được cụ thể hóa vào trong BLTTHS 2015. Mặc dù một số quy định pháp luật tố tụng hình sự đã mặc nhiên thừa nhận “Quyền im lặng” nhưng cho đến nay vẫn chưa có một quy định cụ thể nào nói về nội dung cũng như phạm vi của quyền này. Do đó, cần bổ sung quy định về “Quyền im lặng” trong BLTTHS 2015 để người bị buộc tội có quyền tự bảo vệ mình trước những áp lực từ phía cơ quan buộc tội.

*Tòa án quân sự khu vực Quân khu 4

Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử vụ án hình sự bằng hình thức trực tuyến - Ảnh: Học Ngọc

 

ĐẶNG ĐÌNH THÁI*