Không có căn cứ áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” đối với Nguyễn Văn A

Qua nghiên cứu bài viết “Nguyễn Văn A có phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” hay không?” của tác giả Đỗ Ngọc Bình, tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất của VKS truy tố không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS đối với Nguyễn Văn A.

Theo quy định tại Điều 13 BLTTHS 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo nội dung vụ án thời gian từ tháng 2 năm 2019 đến hết tháng 12 năm 2020 Nguyễn Văn A có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi lô đề và bị TAND tỉnh Đ xử phạt tiền 100 triệu đồng tại bản án số 123/2022/HS-ST ngày 23/6/2022. Như vậy tại thời điểm A đánh bạc đến khi có bản án số 123/2022/HS-ST ngày 23/6/2022 xử phạt A 100 triệu đồng (phạt tiền là hình phạt chính) thì A chưa bị coi là có tội.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS 2015: “1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.” Như vậy có những trường hợp loại trừ sau đối với tái phạm: Thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị kết án hoặc đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích; Phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do vô ý.

Tiếp theo nội dung vụ án ngày 14/5/2022 Nguyễn Văn A có hành vi trộm cắp tài sản và hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm và ngày 14/6/2023 bị truy tố theo khoản 1 Điều 173 BLHS ra Tòa án huyện B để xét xử theo thẩm quyền. Tuy nhiên tại thời điểm A phạm tội “Trộm cắp tài sản” là ngày 14/5/2022 thì A chưa bị kết án, A cũng không có án tích do đó không có căn cứ để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” đối với A.

Như vậy, không đủ căn cứ để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS đối với Nguyễn Văn A khi A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Trên đây là quan điểm của tác giả rất mong nhận được ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc./.

* Ths. Tòa án quân sự Quân khu 3.

Tòa án quân sự Quân khu 3 xét xử vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” - Ảnh: Nguyễn Thành Luân.

NGÔ THỊ HUỆ*