Không thể bắt bị can không bỏ trốn phải chịu trách nhiệm cùng với bị can bỏ trốn

Nghiên cứu bài viết “Tội phạm được xác định như thế nào khi áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” tác giả Lê Ngọc Nam, đăng ngày 21/12/2022, tôi có một số ý kiến trao đổi về vấn đề áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 27, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do BLHS quy định mà khi hết thời hạn này, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

  • Năm năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; luật  sư tội giết người
  • Mười năm đối với tội phạm nghiêm trọng; luật sư tội giết người
  • Mười lăm năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng,
  • Hai mươi năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.bào chữa hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện.

Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS mà người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại phạm tội mới mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định trên vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.

Một là, quá trình điều tra, truy tố, xét xử có được tính vào thời hạn trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?

Đối với vấn đề này, tôi nhất trí với quan điểm thứ nhất cho rằng quá trình điều tra, truy tố, xét xử không được tính vào thời hạn trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, quá trình điều tra, truy tố, xét xử là các quá trình trong hoạt động tố tụng, kể cả vụ án đó bị hủy để xét xử lại nhiều lần, trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì vẫn không tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trừ lý do tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án vì lý do bị can bỏ trốn và đã bị truy nã, các trường hợp còn lại bị tạm đình chỉ, thời gian tiến hành các hoạt động khắc phục lý do tạm đình chỉ được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, bởi khi tạm đình chỉ, các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử phải được coi là bị tạm dừng nên phải tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này là hợp lý do nếu không tính khoảng thời gian này vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, quá trình tố tụng có thể kéo dài, gây cản trở, khó khăn trong việc xác định sự thật của vụ án.

Hai là, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự áp dụng như thế nào trong vụ án có đồng phạm bỏ trốn?

Đối với trường hợp này, tôi đồng tình với quan điểm thứ hai cho rằng những bị can bị bắt được hưởng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi cá nhân của mình. Trong vụ án đồng phạm, sẽ có sự phân hóa trách nhiệm hình sự giữa các bị can trong vụ án, mỗi bị can có những hành vi phạm tội riêng biệt, độc lập và họ phải tự chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó của mình. Trong vụ án đồng phạm có bị can bỏ trốn và đang bị truy nã, nếu có thể tách riêng để xử lý riêng bị can bỏ trốn và bị can không bỏ trốn thì tách riêng, nếu trong thể tách ra để xử lý riêng phải tạm đình chỉ điều tra vụ án để đợi bắt người bỏ trốn thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tính riêng đối với từng bị can. Bởi lẽ người nào thực hiện hành vi phạm tội thì người đó phải tự chịu trách nhiệm hình sự, hay nói cách khác là cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Không thể bắt bị can không bỏ trốn phải chịu trách nhiệm cùng với bị can bỏ trốn. Trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người không trốn tránh và không có lệnh truy nã thì hết thời hiệu đó không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ nữa.

Ba là, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định theo tội danh của Cơ quan Điều tra khởi tố hay tội danh của Tòa án tuyên?

Đối với trường hợp này tôi đồng tình với quan điểm tội phạm được áp dụng để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là tội phạm mà Tòa án tuyên trong bản án có hiệu lực pháp luật. Bởi lẽ, một người sẽ được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trường hợp tội danh mà bản án có hiệu lực đã kết án đối với người phạm tội nhưng bản án đó bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì tội danh làm căn cứ tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là tội danh mà Hội đồng giám đốc thẩm đã kết án người phạm tội. Do vậy, khi Cơ quan Điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can về một tội danh thì người bị khởi tố không bị coi là phạm tội đó cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật nên không thể căn cứ vào tội danh đó để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trên đây là quan điểm trao đổi của tôi, mong nhận được ý kiến trao đổi từ quý độc giả./.

 

Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phiên tòa hình sự  do - Ảnh: Chí Duyên

NGUYỄN THANH HUYỀN (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 7)