Về quy định tại khoản 1 Điều 9 dự thảo Nghị quyết hướng dẫn một số quy định tại Điều 321 và Điều 322 của BLHS

Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 321 và Điều 322 của BLHS đang được lấy ý kiến đóng góp. Bài viết phân tích quy định của pháp luật về xử lý vật chứng trong trường hợp bị cáo dùng tài sản chung của vợ chồng làm công cụ, phương tiện phạm tội tại khoản 1 Điều 9 của Dự thảo Nghị quyết và đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn thiện.

Tại khoản 1 Điều 9 Dự thảo Nghị quyết quy định về xử lý vật, tiền liên quan đến tội phạm như sau:

“1. Vật, tiền là tài sản chung vợ chồng là công cụ, phương tiện phạm tội thì xử lý như sau:

Tịch thu toàn bộ công cụ, phương tiện phạm tội đó mà không phụ thuộc vào việc người vợ/chồng của người phạm tội có lỗi hay không trong việc để cho họ sử dụng tài sản chung đó làm công cụ, phương tiện phạm tội. Nếu người vợ/chồng của người phạm tội có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc yêu cầu bồi thường một phần giá trị của tài sản chung mà người phạm tội dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.

Quy định về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được quy định tại Điều 47 thuộc Chương VII các biện pháp tư pháp của BLHS năm 2015. Do đó, có thể hiểu tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là biện pháp tư pháp được cơ quan có thẩm quyền tư pháp hình sự quyết định áp dụng đối với người phạm tội để hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt (nếu được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt), góp phần phòng ngừa người đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới[1].

Theo đó, Điều 47 BLHS năm 2015 quy định về việc tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm như sau:

“1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:

a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;

c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.

3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu”.

Theo quy định tại Điều 89 BLTTHS năm 2015 thì: Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định như sau:

“2. Vật chứng được xử lý như sau:

a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;

b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy.

3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền:

a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;

b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;

c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;

d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

4. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.

Qua quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 cho thấy đối với công cụ, phương tiện được dùng vào việc phạm tội thì bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy. Tuy nhiên, các quy định này không nêu rõ các công cụ, phương tiện mà người phạm tội dùng vào việc thực hiện tội phạm dưới hình thức lỗi nào sẽ bị tịch thu (lỗi cố ý hay lỗi vô ý). Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng[2], việc tịch thu công cụ, phương tiện phạm tội chỉ đặt ra đối với trường hợp người phạm tội dùng vào việc thực hiện tội phạm do lỗi cố ý, đối với các công cụ, phương tiện được sử dụng để thực hiện tội phạm do lỗi vô ý thì không bị tịch thu.

Tương tự, quy định tại khoản 3 Điều 47 BLHS cũng không nêu rõ hình thức lỗi (lỗi cố ý hay lỗi vô ý) của người chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản trong việc để người phạm tội sử dụng tài sản vào việc phạm tội. Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng[3], trong trường hợp này cần phân biệt hai trường hợp:

- Một là, nếu người chủ tài sản có lỗi cố ý để người phạm tội sử dụng vật, tiền của mình để thực hiện tội phạm thì ngoài việc vật, tiền đó bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước mà bản thân người chủ tài sản đó còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò người đồng phạm giúp sức.

- Hai là, nếu người chủ tài sản có lỗi vô ý để người phạm tội sử dụng vật, tiền của mình cho việc thực hiện tội phạm thì việc xem xét có tịch thu hay không tịch thu vật, tiền đó sung vào ngân sách nhà nước do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tùy nghi quyết định, căn cứ trách nhiệm quản lý tài sản được quy định đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản và các tình tiết khác có liên quan.

Tác giả cho rằng, trường hợp thứ hai nêu trên ngoài căn cứ vào trách nhiệm quản lý tài sản được quy định đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản, thì cần xem xét thêm đến mức độ lỗi của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản và tính chất nguy hiểm của tội phạm do người phạm tội gây ra để làm căn cứ cho việc quyết định tịch thu.

Thực tiễn xét xử cho thấy, cùng một tình huống tương tự nhau nhưng có Tòa án tuyên trả lại toàn bộ, có Tòa án tuyên tịch thu toàn bộ, có Tòa án tuyên tịch thu 1/2 giá trị tài sản chung của vợ chồng mà một bên sử dụng để phạm tội. Tuy nhiên, điểm chung là các Tòa án cấp phúc thẩm đều có sự thống nhất về quan điểm giải quyết là tịch thu 1/2 giá trị tài sản chung của vợ chồng mà một bên sử dụng để phạm tội[4]. Có lẽ do quy định của Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS chưa quy định rõ về hình thức lỗi cố ý hay vô ý nên dẫn đến thực tiễn xét xử đã có các phán quyết khác nhau trong việc xử lý vật chứng là tài sản chung của vợ chồng mà một bên dùng vào việc phạm tội.

Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng, việc xử lý đối với phương tiện, công cụ phạm tội trong trường hợp phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 47 BLHS, thì: “Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu. Do vậy, trường hợp phương tiện, công cụ phạm tội được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng thì tùy từng trường hợp, nếu xác định được vợ hoặc chồng có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như biết rõ mà vẫn đồng ý hoặc cho phép) thì phương tiện, công cụ phạm tội đó có thể bị tịch thu toàn bộ; nếu xác định vợ hoặc chồng không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như không biết việc chồng hoặc vợ sử dụng vào việc phạm tội) thì có thể không tịch thu phần giá trị tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng[5].

Mặc dù, quan điểm nêu trên không nêu cụ thể là lỗi cố ý hay lỗi vô ý, nhưng thông qua việc giải thích (như biết rõ mà vẫn đồng ý hoặc cho phép)” cho thấy đây là lỗi cố ý và “(như không biết việc chồng hoặc vợ sử dụng vào việc phạm tội)” cho thấy đây là lỗi vô ý. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý thêm nếu người chủ tài sản có lỗi cố ý để người phạm tội sử dụng vật, tiền của mình để thực hiện tội phạm thì ngoài việc vật, tiền đó bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước mà bản thân người chủ tài sản đó còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò người đồng phạm giúp sức. Do đó, tác giả cho rằng dự thảo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Dự thảo Nghị quyết cần xem xét đến yếu tố lỗi (lỗi cố ý hay lỗi vô ý) để xem xét có tịch thu hay không tịch thu hoặc tịch thu toàn bộ hay một nữa tài sản của người vợ/chồng của người phạm tội.

 

 

 

ThS. PHAN THÀNH NHÂN (TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp)

[1] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Lê Văn Cảm - Chủ biên (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.394-395.

[2] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Lê Văn Cảm - Chủ biên (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.395; Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần chung), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.237.

[3] Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Lê Văn Cảm - Chủ biên (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.397; Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần chung), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.238.

[4] Xem thêm: Nhật Minh, “Về xử lý vật chứng là phương tiện phạm tội thuộc sở hữu chung của nhiều chủ thể”, https://www.toaan.gov.vn/webcenter/ShowProperty?nodeId=/UCMServer/TAND284217; Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Tòa án, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta712981t1cvn/chi-tiet-ban-an , truy cập ngày 04/5/2024.

[5] Tại tiểu mục 1.2, Mục 1, Phần I Công văn số 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc “Giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS, BLTTHS, THTG và THAHS”.

 

TAND huyện Lấp Vò, Đồng Tháp xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Cẩm Nhung