Một số quan điềm khác nhau khi áp dụng Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 150 và Điều 151 BLHS 2015

A mua bán người sau đó gây thương tích cho nạn nhân với tỷ lệ tổn thương cơ thể  40%. A phạm tội gì ?

Điều 150 Tội mua bán người  trong BLHS năm 2015 quy định rõ trong điều luật về thủ đoạn phạm tội mua bán người là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn khác”… Nội dung mô tả hành vi khách quan tương đồng với quy định của các điều ước quốc tế về chống mua bán người. Ngoài ra Điều 150 còn bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung như: vì động cơ đê hèn; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến 60%; làm nạn nhân chết hoặc tự sát; tái phạm nguy hiểm.

Đối với Điều 151 Tội mua bán người dưới 16 tuổi  trong BLHS năm 2015 thì khoản 1 của Điều luật cũ được chuyển thành cấu thành cơ bản; khoản 2, 3, 4 của điều luật cũ sửa thành khoản 1, 2, 3. Khoản 2 sửa điểm h “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” thành “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến 60%” và gộp tình tiết h, i làm một tình tiết chung: “Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này”. Khoản 3 sửa điểm c “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 46% trở lên” và bổ sung tình tiết “Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”.

Đối với hai tội trên, PGS. Phạm Minh Tuyên đã có bài viết phân tích rất cụ thể, chi tiết được đăng trên tạp chí: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/thuc-trang-cac-vu-an-mua-ban-nguoi-mua-ban-tre-em-mot-so-vuong-mac-va-kien-nghi. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin trao đổi một số vướng mắc, bất cập khi áp dụng Nghị quyết số 02/2019/NQ – HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán TANTNDTC hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi. Đó là, sau khi mua bán người, người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích không thuộc trường hợp “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” thì người phạm tội phạm hai tội “mua bán người” và “cố ý gây thương tích” hay chỉ phạm một tội “ mua bán người”?

Ví dụ: Do bố mẹ giục hối thúc cần có con dâu để phụng dưỡng tuổi già, Nguyễn Văn A nảy sinh ý định mua một người phụ nữ về làm vợ. Ngày 15/10/2020 qua lời giới thiệu của B, A đã đồng ý mua chị C (20 tuổi) với giá 200 triệu đồng. Trong quá trình sinh sống với A, có một lần C làm vỡ bình hoa nên bị A đánh đập. C phản kháng lại, chạy thoát được ra ngoài và được người dân gần đó cứu giúp. Sau khi biết được sự việc, cơ quan Công an bắt giữ A và tiến hành điều tra. A đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán và đánh đập chị C với cơ quan điều tra. Tỷ lệ thương tích của chị C khi giám định là 40%. Vậy A phạm tội gì? Quá trình giải quyết còn có nhiều quan điểm khác nhau khi xác định tội danh của Nguyễn Văn A

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nguyễn Văn A phạm tội “Mua bán người” vì A có hành vi mua chị C với giá 200 triệu đồng và đã gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ 40%. Như vậy, đủ căn cứ để kết luận A phạm tội “Mua bán người” theo điểm c khoản 2 Điều 150 BLHS 2015.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Nguyễn Văn A phạm tội “Mua bán người” theo khoản 1 Điều 150 BLHS 2015 và tội “Cố ý gây thương tích”, điểm a khoản 2 Điều 134 BLHS. Trong vụ án này, A đã thực hiện hai hành vi và mỗi một hành vi đều đủ các yếu tố cứ cấu thành tội phạm riêng biệt. Vì hành vi mua bán người và cố ý gây thương tích là hai hành vi độc lập với nhau, xâm phạm đến 2 khách thể khác nhau được BLHS bảo vệ là quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm của con người và xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Nếu chỉ định tội danh một tội “mua bán người” thì không thể hiện hết tính nguy hiểm của hành vi phạm tội của A và như vậy, sẽ không bảo đảm nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, không thể hiện tính nghiêm khắc đối với kẻ phạm tội và bỏ lọt tội phạm. Do đó, cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A bằng 2 tội danh “Mua bán người” và “Cố ý gây thương tích”.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất: Trường hợp này A phạm tội “Mua bán người theo điểm c khoản 2 Điều 150 BLHS; bởi lẽ:

Điểm c khoản 2 Điều 150 BLHS quy định: “c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ  31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này”.

Điểm b khoản 3 Điều 150 quy định “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”.

Như vậy trong vụ án trên, hành vi của A thông qua B mua bán chị C đã thỏa mãn tội “Mua bán người” theo quy định tại Điều 150 BLHS. Khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho chị C, A không nhằm mục đích là lấy bộ phận cơ thể của chị C. Chị C bị tổn thương cơ thể 40%, như vậy hành vi của A thỏa mãn điểm c khoản 2 Điều 150 BLHS.

Vậy trong trường hợp chị C bị tổn thương cơ thể dưới 31% thì xử lý như thế nào? Trong trường hợp này tại Điều 8 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn A sẽ bị truy cứu TNHS về tội mua bán người và tội cố ý gây thương tích.

Trên đây là các quan điểm khác nhau về việc giải quyết vụ án, rất mong được sự trao đổi của bạn đọc./.

 

 

Tòa án  tỉnh Cao Bằng xét xử vụ án “Mua bán người dưới 16 tuổi” - Ảnh Cao Cường

                                                                                     

NGUYỄN VŨ HOÀNG (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3)